Vút Bay - Up (2009)
Chủ Nhật, 2 tháng 11, 2014
THÔNG TIN PHIM
Vút bay (tựa gốc tiếng Anh: Up) là một bộ phim hoạt hình máy tính được Pixar Animation Studios sản xuất và Walt Disney Pictures phát hành. Bộ phim ra mắt khán giả vào ngày 9 tháng 5 năm 2009 tại Bắc Mỹ và là phim hoạt hình đầu tiên khai mạc Liên hoan phim Cannes 2009. Bộ phim ra mắt khán giả tại Anh vào ngày 9 tháng 10 năm 2009.
Vút bay là bộ phim dài thứ nhì của đạo diễn Pete Docter, sau bộ phim Monsters, Inc., và có sự tham gia lồng tiếng của các diễn viên Edward Asner, Christopher Plummer, Bob Peterson, và Jordan Nagai. Đây là bộ phim thời lượng dài thứ 10 của Pixar và là bộ phim đầu tiên được chiếu bằng kỹ thuật Disney Digital 3D .Bộ phim cũng được trình chiếu với công nghệ Dolby 3D trong một số rạp.
Đạo diễn | Pete Docter Bob Peterson | Công chiếu | 29 tháng 5, 2009 |
Sản xuất | Jonas Rivera John Lasseter Andrew Stanton | Độ dài | 96 phút |
Tác giả | Bob Peterson Pete Docter Thomas McCarthy | Quốc gia | Hoa Kỳ |
Diễn viên | Edward Asner Christopher Plummer Jordan Nagai Bob Peterson | Ngôn ngữ | Tiếng Anh |
Âm nhạc | Michael Giacchino | Kinh phí | 175 triệu USD |
Hãng sản xuất | Pixar Animation Studios | Doanh thu | >723.005.700 USD |
Phát hành | Walt Disney Pictures |
Vút bay (tựa gốc tiếng Anh: Up) là một bộ phim hoạt hình máy tính được Pixar Animation Studios sản xuất và Walt Disney Pictures phát hành. Bộ phim ra mắt khán giả vào ngày 9 tháng 5 năm 2009 tại Bắc Mỹ và là phim hoạt hình đầu tiên khai mạc Liên hoan phim Cannes 2009. Bộ phim ra mắt khán giả tại Anh vào ngày 9 tháng 10 năm 2009.
Vút bay là bộ phim dài thứ nhì của đạo diễn Pete Docter, sau bộ phim Monsters, Inc., và có sự tham gia lồng tiếng của các diễn viên Edward Asner, Christopher Plummer, Bob Peterson, và Jordan Nagai. Đây là bộ phim thời lượng dài thứ 10 của Pixar và là bộ phim đầu tiên được chiếu bằng kỹ thuật Disney Digital 3D .Bộ phim cũng được trình chiếu với công nghệ Dolby 3D trong một số rạp.
Câu chuyện của bộ phim xoay quanh một ông lão goá vợ tên Carl Fredricksen và một cậu bé "nhà thám hiểm hoang dã" tên là Russell. Họ bay đến Nam Mỹ trong một căn nhà được kéo lên không trung bằng bong bóng. Bộ phim được hầu hết giới phê bình đánh giá cao với tỷ lệ 98% tại Rotten Tomatoes (bộ phim có tỷ lệ khen thưởng cao nhất năm 2009 tại trang web này), và đã đạt doanh thu trên 723 triệu USD toàn cầu, trở thành bộ phim có doanh thu cao thứ nhì của Pixar, chỉ sau Finding Nemo.
Vút bay đã giành Giải Quả cầu vàng cho phim hoạt hình hay nhất và nhạc phim gốc hay nhất của Hiệp hội báo chí nước ngoài tại Hollywood. Gần đây hơn, bộ phim cũng đã nhận 5 đề cử cho Giải Oscar, kể cả cho phim xuất sắc nhất, trở thành bộ phim hoạt hình thứ nhì trong lịch sử nhận đề cử cho giải này, chỉ sau phim Người đẹp và ác thú trong năm 1991.Nó cũng được đề cử cho giải phim hoạt hình hay nhất.
NỘI DUNG PHIM
Qua một bộ phim tài liệu, khán giả được biết đến nhà thám hiểm nổi tiếng Charles F. Muntz (Christopher Plummer), người đã thám hiểm thế giới bằng khinh khí cầu khổng lồ của ông với tên "The Spirit of Adventure". Trong chuyến du hành táo bạo nhất của mình, ông trở về từ Nam Mỹ với một bộ xương của một sinh vật lớn và chưa nhận dạng được. Các nhà khoa học hoài nghi và cho rằng đây là một mẫu vật giả, và từ đó Muntz tự lưu vong. Muntz thề rằng ông sẽ không trở về cho đến khi tìm được bằng chứng.
Carl Fredricksen (Jeremy Leary), một cậu bé nhút nhát, ít nói và từ lâu đã ngưỡng mộ Muntz, cũng bị sốc, nhưng tin tưởng rằng Muntz sẽ trở về và chứng minh mình là đúng. Một ngày, Carl kết bạn với một cô gái tinh nghịch và đầy nghị lực tên là Ellie (Elizabeth Docter), một người hâm mộ Muntz. Cô viết giấc mơ của mình vào sổ lưu niệm cá nhân, cho Carl biết rằng cô muốn di chuyển căn nhà câu lạc bộ đến Thác Paradise - một thác nước vách đá hùng vĩ ở Nam Mỹ, và kêu gọi cậu hãy hứa sẽ giúp cô. Trong đoạn phim ngắn kế tiếp, khán giả chứng kiến Carl và Ellie trưởng thành, kết hôn, và sống đến bạc đầu trong căn nhà cũ mà họ đã gặp nhau đầu tiên, với Carl làm việc như một người bán bong bóng đồ chơi trong khi Ellie làm nhân viên sở thú. Họ không thể có con, và luôn tiết kiệm để có đủ tiền du lịch đến Thác Paradise, nhưng luôn gặp những vướng bận về tài chính khác. Cuối cùng, khi họ có thể thực hiện chuyến đi được, thì Ellie qua đời do tuổi già, Carl trở thành một người góa vợ cô đơn và cay đắng với cuộc đời vắng bóng bà vợ yêu quí.
Nhiều năm sau, Carl (Edward Asner) bây giờ là một người cao tuổi, sống một mình trong căn nhà đó - nhưng bây giờ đang nằm giữa một trung tâm đô thị mới. Không muốn di chuyển, cuối cùng Carl đã xô xát với một công nhân xây dựng về hộp thư bị hư của mình, và buộc phải theo lệnh tòa án đến ở tại một nơi dành cho người nghỉ hưu. Ông lập ra một kế để giữ lời hứa với Ellie: biến căn nhà của mình thành một khinh khí cầu tạm, sử dụng hàng vạn bong bóng bay để nâng nó ra khỏi nền móng. Russell (Jordan Nagai), một "Nhà thám hiểm Hoang dã" (Hướng đạo sinh) đang cố gắng lấy chuyên hiệu cuối cùng trong môn "Giúp đỡ người già", cũng trốn theo trên cái cổng vòm trước cửa nhà sau khi đã bị Carl lừa và sai bảo đi bắt con chim "snipe" (một loài chim cực kỳ khó bắt được).
Sau khi bị kẹt trong một trận bão, họ hạ cánh gần một khe núi lớn đối diện với Thác Paradise. Họ dùng trọng lượng thân thể làm chấn lưu (để kéo căn nhà nổi) và đi lại xung quanh khe núi, với hy vọng rằng họ sẽ đến được thác nước trước khi các bong bóng xì hơi. Họ gặp một con chim không bay to lớn và đầy màu sắc mà Russell đặt tên là Kevin (Pete Docter) (mặc dù đây là một con chim cái), và một con chó tên Dug (Bob Peterson) đeo một vòng cổ đặc biệt cho phép nó có thể nói được. Dug là thành viên có địa vị thấp nhất trong một đàn chó rất thông minh của Charles Muntz. Muntz, vì chưa tìm được mẫu vật còn sống của con vật mà xưa kia bị cho là giả tạo, vẫn còn sống trong lưu vong. Vẫn tin tưởng rằng ông và các con chó của mình sẽ tìm được con thú ấy, Muntz đã huấn luyện các con chó như một đội quân đầy tớ.
Muntz mời Carl và Russell vào khinh khí cầu khổng lồ của mình. Lúc đầu Carl rất vui mừng được gặp mặt thần tượng thời thơ ấu, nhưng sau đó nhận thấy rằng Muntz có một khía cạnh đen tối hơn. Khi Muntz biết được về "Kevin", Carl nhận thấy Muntz đang tìm cách bắt nó, và đã giết những nhà thám hiểm trước đó mà ông tin tưởng đã làm chướng ngại. Carl, Russell, Dug, và Kevin chạy trốn từ đội quân chó của Muntz, nhưng Kevin đã bị thương trong lúc chạy trốn. Khi mọi người đưa Kevin về với các con, Muntz và bầy chó cũng đến (do có thiết bị theo dõi trong vòng cổ của Dug) và đốt lửa dưới căn nhà của Carl, buộc Carl phải bỏ Kevin để chữa cháy; Muntz bắt được con chim và bỏ đi. Carl cuối cùng đưa căn nhà đến thác nước (đúng như lời đã hứa với người vợ) và các bong bóng cũng đã xì hơi. Buồn bã vì Carl đã bỏ Kevin để cứu căn nhà và tin rằng mình có thể cứu được con chim đó, Russell đã gắn bong bóng của Carl vào mình và dùng một máy thổi lá để đi tìm khinh khí cầu của Muntz.
Ngồi trong căn nhà của mình, Carl buồn bã mở ra quyển lưu niệm từ niên thiếu của Ellie, và bất ngờ tìm được những hình ảnh trong cuộc sống chung của họ trong những trang trước kia còn trống, và một lời ghi cuối từ Ellie, cảm ơn ông cho "cuộc phiêu lưu", và động viên ông hãy đi tìm một "cuộc phiêu lưu mới". Hớn hở, ông ra ngoài để tìm Russell, nhưng chỉ thấy cậu bé đã bay xa. Carl giảm nhẹ trọng lượng của căn nhà bằng cách vứt đi những đồ nội thất cũ và những vật dụng có kỷ niệm tình cảm khác, và đuổi theo Russell. Russell cuối cùng bị bắt, nhưng Carl đến kịp lúc để cứu cậu bé và thả Kevin. Muntz rượt đuổi theo họ trong khinh khí cầu cho đến khi ông dồn họ vào căn nhà với một khẩu súng săn trong khi Carl cố gắng giữ thăng bằng. Một khi Muntz vào được, Carl dụ Kevin ra ngoài cửa sổ bằng một thanh kẹo sô-cô-la trong lúc Dug và Russell ôm theo. Muntz nhảy ra theo, nhưng chỉ chụp được dây bong bóng và rơi xuống chết. Không còn dây giữ, căn nhà rơi xuống, nhưng Carl không quan tâm nữa.
Carl dùng khinh khí cầu của Muntz và đưa Kevin về với các con, rồi chở Russell và Dug về lại thành phố. Khi cha của Russell không tham dự lễ lên cấp cho con, Carl thực hiện vai trò đó và hãnh điện gắn chuyên hiệu cuối cùng cho Russell: là một cái nắp chai mà Ellie đã đưa cho Carl khi họ vừa gặp mặt - "Chuyên hiệu Ellie". Russell coi Carl như người cha, trong khi Dug - nay có địa vị cao nhất trong bầy chó của Muntz - coi Carl như chủ nhân mới. Khi cả ba bắt đầu những cuộc phiêu lưu mới, khán giả nhìn thấy căn nhà đã rơi đúng chỗ, ngay tại Thác Paradise.
NỘI DUNG PHIM
Qua một bộ phim tài liệu, khán giả được biết đến nhà thám hiểm nổi tiếng Charles F. Muntz (Christopher Plummer), người đã thám hiểm thế giới bằng khinh khí cầu khổng lồ của ông với tên "The Spirit of Adventure". Trong chuyến du hành táo bạo nhất của mình, ông trở về từ Nam Mỹ với một bộ xương của một sinh vật lớn và chưa nhận dạng được. Các nhà khoa học hoài nghi và cho rằng đây là một mẫu vật giả, và từ đó Muntz tự lưu vong. Muntz thề rằng ông sẽ không trở về cho đến khi tìm được bằng chứng.
Carl Fredricksen (Jeremy Leary), một cậu bé nhút nhát, ít nói và từ lâu đã ngưỡng mộ Muntz, cũng bị sốc, nhưng tin tưởng rằng Muntz sẽ trở về và chứng minh mình là đúng. Một ngày, Carl kết bạn với một cô gái tinh nghịch và đầy nghị lực tên là Ellie (Elizabeth Docter), một người hâm mộ Muntz. Cô viết giấc mơ của mình vào sổ lưu niệm cá nhân, cho Carl biết rằng cô muốn di chuyển căn nhà câu lạc bộ đến Thác Paradise - một thác nước vách đá hùng vĩ ở Nam Mỹ, và kêu gọi cậu hãy hứa sẽ giúp cô. Trong đoạn phim ngắn kế tiếp, khán giả chứng kiến Carl và Ellie trưởng thành, kết hôn, và sống đến bạc đầu trong căn nhà cũ mà họ đã gặp nhau đầu tiên, với Carl làm việc như một người bán bong bóng đồ chơi trong khi Ellie làm nhân viên sở thú. Họ không thể có con, và luôn tiết kiệm để có đủ tiền du lịch đến Thác Paradise, nhưng luôn gặp những vướng bận về tài chính khác. Cuối cùng, khi họ có thể thực hiện chuyến đi được, thì Ellie qua đời do tuổi già, Carl trở thành một người góa vợ cô đơn và cay đắng với cuộc đời vắng bóng bà vợ yêu quí.
Nhiều năm sau, Carl (Edward Asner) bây giờ là một người cao tuổi, sống một mình trong căn nhà đó - nhưng bây giờ đang nằm giữa một trung tâm đô thị mới. Không muốn di chuyển, cuối cùng Carl đã xô xát với một công nhân xây dựng về hộp thư bị hư của mình, và buộc phải theo lệnh tòa án đến ở tại một nơi dành cho người nghỉ hưu. Ông lập ra một kế để giữ lời hứa với Ellie: biến căn nhà của mình thành một khinh khí cầu tạm, sử dụng hàng vạn bong bóng bay để nâng nó ra khỏi nền móng. Russell (Jordan Nagai), một "Nhà thám hiểm Hoang dã" (Hướng đạo sinh) đang cố gắng lấy chuyên hiệu cuối cùng trong môn "Giúp đỡ người già", cũng trốn theo trên cái cổng vòm trước cửa nhà sau khi đã bị Carl lừa và sai bảo đi bắt con chim "snipe" (một loài chim cực kỳ khó bắt được).
Sau khi bị kẹt trong một trận bão, họ hạ cánh gần một khe núi lớn đối diện với Thác Paradise. Họ dùng trọng lượng thân thể làm chấn lưu (để kéo căn nhà nổi) và đi lại xung quanh khe núi, với hy vọng rằng họ sẽ đến được thác nước trước khi các bong bóng xì hơi. Họ gặp một con chim không bay to lớn và đầy màu sắc mà Russell đặt tên là Kevin (Pete Docter) (mặc dù đây là một con chim cái), và một con chó tên Dug (Bob Peterson) đeo một vòng cổ đặc biệt cho phép nó có thể nói được. Dug là thành viên có địa vị thấp nhất trong một đàn chó rất thông minh của Charles Muntz. Muntz, vì chưa tìm được mẫu vật còn sống của con vật mà xưa kia bị cho là giả tạo, vẫn còn sống trong lưu vong. Vẫn tin tưởng rằng ông và các con chó của mình sẽ tìm được con thú ấy, Muntz đã huấn luyện các con chó như một đội quân đầy tớ.
Muntz mời Carl và Russell vào khinh khí cầu khổng lồ của mình. Lúc đầu Carl rất vui mừng được gặp mặt thần tượng thời thơ ấu, nhưng sau đó nhận thấy rằng Muntz có một khía cạnh đen tối hơn. Khi Muntz biết được về "Kevin", Carl nhận thấy Muntz đang tìm cách bắt nó, và đã giết những nhà thám hiểm trước đó mà ông tin tưởng đã làm chướng ngại. Carl, Russell, Dug, và Kevin chạy trốn từ đội quân chó của Muntz, nhưng Kevin đã bị thương trong lúc chạy trốn. Khi mọi người đưa Kevin về với các con, Muntz và bầy chó cũng đến (do có thiết bị theo dõi trong vòng cổ của Dug) và đốt lửa dưới căn nhà của Carl, buộc Carl phải bỏ Kevin để chữa cháy; Muntz bắt được con chim và bỏ đi. Carl cuối cùng đưa căn nhà đến thác nước (đúng như lời đã hứa với người vợ) và các bong bóng cũng đã xì hơi. Buồn bã vì Carl đã bỏ Kevin để cứu căn nhà và tin rằng mình có thể cứu được con chim đó, Russell đã gắn bong bóng của Carl vào mình và dùng một máy thổi lá để đi tìm khinh khí cầu của Muntz.
Ngồi trong căn nhà của mình, Carl buồn bã mở ra quyển lưu niệm từ niên thiếu của Ellie, và bất ngờ tìm được những hình ảnh trong cuộc sống chung của họ trong những trang trước kia còn trống, và một lời ghi cuối từ Ellie, cảm ơn ông cho "cuộc phiêu lưu", và động viên ông hãy đi tìm một "cuộc phiêu lưu mới". Hớn hở, ông ra ngoài để tìm Russell, nhưng chỉ thấy cậu bé đã bay xa. Carl giảm nhẹ trọng lượng của căn nhà bằng cách vứt đi những đồ nội thất cũ và những vật dụng có kỷ niệm tình cảm khác, và đuổi theo Russell. Russell cuối cùng bị bắt, nhưng Carl đến kịp lúc để cứu cậu bé và thả Kevin. Muntz rượt đuổi theo họ trong khinh khí cầu cho đến khi ông dồn họ vào căn nhà với một khẩu súng săn trong khi Carl cố gắng giữ thăng bằng. Một khi Muntz vào được, Carl dụ Kevin ra ngoài cửa sổ bằng một thanh kẹo sô-cô-la trong lúc Dug và Russell ôm theo. Muntz nhảy ra theo, nhưng chỉ chụp được dây bong bóng và rơi xuống chết. Không còn dây giữ, căn nhà rơi xuống, nhưng Carl không quan tâm nữa.
Carl dùng khinh khí cầu của Muntz và đưa Kevin về với các con, rồi chở Russell và Dug về lại thành phố. Khi cha của Russell không tham dự lễ lên cấp cho con, Carl thực hiện vai trò đó và hãnh điện gắn chuyên hiệu cuối cùng cho Russell: là một cái nắp chai mà Ellie đã đưa cho Carl khi họ vừa gặp mặt - "Chuyên hiệu Ellie". Russell coi Carl như người cha, trong khi Dug - nay có địa vị cao nhất trong bầy chó của Muntz - coi Carl như chủ nhân mới. Khi cả ba bắt đầu những cuộc phiêu lưu mới, khán giả nhìn thấy căn nhà đã rơi đúng chỗ, ngay tại Thác Paradise.
General
Unique ID : 233964070224998219002561351365013759454 (0xB003D743A1519C39919E28B6897B65DE)
Complete name : UP (2009) BluRay [1080p] {5.1} by Mr.Bin.mkv
Format : Matroska
Format version : Version 4 / Version 2
File size : 1.75 GiB
Duration : 1h 36mn
Overall bit rate : 2 588 Kbps
Movie name : UP (2009) Encode by Mr.Bin
Encoded date : UTC 2014-10-09 21:32:39
Writing application : mkvmerge v7.0.0 ('Where We Going') 32bit built on Jun 9 2014 15:08:34
Writing library : libebml v1.3.0 + libmatroska v1.4.1
DURATION : 01:36:07.680000000
NUMBER_OF_FRAMES : 135180
NUMBER_OF_BYTES : 60094005
_STATISTICS_WRITING_APP : mkvmerge v7.0.0 ('Where We Going') 32bit built on Jun 9 2014 15:08:34
_STATISTICS_WRITING_DATE_UTC : 2014-10-09 21:32:39
_STATISTICS_TAGS : BPS DURATION NUMBER_OF_FRAMES NUMBER_OF_BYTES
Video
ID : 1
Format : AVC
Format/Info : Advanced Video Codec
Format profile : High@L4.0
Format settings, CABAC : Yes
Format settings, ReFrames : 4 frames
Codec ID : V_MPEG4/ISO/AVC
Duration : 1h 36mn
Nominal bit rate : 2 238 Kbps
Width : 1 920 pixels
Height : 1 080 pixels
Display aspect ratio : 16:9
Frame rate mode : Constant
Frame rate : 23.976 fps
Color space : YUV
Chroma subsampling : 4:2:0
Bit depth : 8 bits
Scan type : Progressive
Bits/(Pixel*Frame) : 0.045
Title : UP (h264 high L4.0 ,yuv420p, 1920x1080, English)
Writing library : x264 core 128 r2216 198a7ea
Encoding settings : cabac=1 / ref=3 / deblock=1:1:1 / analyse=0x3:0x133 / me=umh / subme=10 / psy=1 / psy_rd=0.40:0.00 / mixed_ref=1 / me_range=24 / chroma_me=1 / trellis=2 / 8x8dct=1 / cqm=0 / deadzone=21,11 / fast_pskip=1 / chroma_qp_offset=-2 / threads=18 / lookahead_threads=3 / sliced_threads=0 / nr=0 / decimate=1 / interlaced=0 / bluray_compat=0 / constrained_intra=0 / bframes=3 / b_pyramid=2 / b_adapt=2 / b_bias=0 / direct=3 / weightb=1 / open_gop=0 / weightp=2 / keyint=250 / keyint_min=23 / scenecut=40 / intra_refresh=0 / rc_lookahead=60 / rc=2pass / mbtree=1 / bitrate=2238 / ratetol=1.0 / qcomp=0.60 / qpmin=0 / qpmax=69 / qpstep=4 / cplxblur=20.0 / qblur=0.5 / vbv_maxrate=25000 / vbv_bufsize=25000 / nal_hrd=none / ip_ratio=1.40 / aq=1:0.60
Language : English
Default : Yes
Forced : No
Audio #1
ID : 2
Format : AAC
Format/Info : Advanced Audio Codec
Format profile : HE-AAC / LC
Codec ID : A_AAC
Duration : 1h 36mn
Channel(s) : 6 channels
Channel positions : Front: L C R, Side: L R, LFE
Sampling rate : 48.0 KHz / 24.0 KHz
Compression mode : Lossy
Title : UP (aac, 48000 Hz, 5.1, English)
Language : English
Default : No
Forced : No
Audio #2
ID : 3
Format : AAC
Format/Info : Advanced Audio Codec
Format profile : HE-AAC / LC
Codec ID : A_AAC
Duration : 1h 36mn
Channel(s) : 2 channels
Channel positions : Front: L R
Sampling rate : 48.0 KHz / 24.0 KHz
Compression mode : Lossy
Title : UP (aac, 48000 Hz, stereo, English)
Language : English
Default : No
Forced : No
Audio #3
ID : 4
Format : MPEG Audio
Format version : Version 1
Format profile : Layer 2
Codec ID : A_MPEG/L2
Codec ID/Hint : MP2
Duration : 1h 36mn
Bit rate mode : Constant
Bit rate : 64.0 Kbps
Channel(s) : 2 channels
Sampling rate : 48.0 KHz
Compression mode : Lossy
Stream size : 44.2 MiB (2%)
Title : UP (mp2, 48000 Hz, stereo, 64 kb/s, Tiếng Việt)
Language : Vietnamese
Default : No
Forced : No
Text #1
ID : 5
Format : UTF-8
Codec ID : S_TEXT/UTF8
Codec ID/Info : UTF-8 Plain Text
Title : UP (subrip, Tiếng Việt)
Language : Vietnamese
Default : Yes
Forced : No
Text #2
ID : 6
Format : UTF-8
Codec ID : S_TEXT/UTF8
Codec ID/Info : UTF-8 Plain Text
Title : UP (subrip, English)
Language : English
Default : No
Forced : No
Menu
00:00:00.000 : en:00:00:00.000
00:02:39.409 : en:00:02:39.409
00:07:14.184 : en:00:07:14.184
00:11:37.488 : en:00:11:37.488
00:13:33.479 : en:00:13:33.479
00:15:22.088 : en:00:15:22.088
00:17:35.888 : en:00:17:35.888
00:20:25.140 : en:00:20:25.140
00:24:31.303 : en:00:24:31.303
00:26:23.790 : en:00:26:23.790
00:28:02.556 : en:00:28:02.556
00:29:40.237 : en:00:29:40.237
00:33:20.165 : en:00:33:20.165
00:34:20.391 : en:00:34:20.391
00:35:14.487 : en:00:35:14.487
00:39:49.512 : en:00:39:49.512
00:42:34.844 : en:00:42:34.844
00:44:41.178 : en:00:44:41.178
00:46:17.233 : en:00:46:17.233
00:49:19.123 : en:00:49:19.123
00:52:20.929 : en:00:52:20.929
00:55:23.987 : en:00:55:23.987
01:00:33.546 : en:01:00:33.546
01:04:19.188 : en:01:04:19.188
01:06:14.303 : en:01:06:14.303
01:08:58.009 : en:01:08:58.009
01:10:20.716 : en:01:10:20.716
01:13:35.327 : en:01:13:35.327
01:15:24.353 : en:01:15:24.353
01:17:52.751 : en:01:17:52.751
01:19:45.864 : en:01:19:45.864
01:21:53.867 : en:01:21:53.867
01:23:23.290 : en:01:23:23.290
01:26:02.657 : en:01:26:02.657
01:29:02.420 : en:01:29:02.420
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét